Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2013

Giám đáng tin cậy sát an toàn nợ công ở Việt Nam: Những vấn đề đặt ra.

Các chỉ tiêu an toàn nợ là một số ngưỡng không được phép vượt quá đối với các chỉ tiêu về nợ có hệ trọng do cấp có thẩm quyền quyết định trong từng thời kỳ của một nhà nước

Giám sát an toàn nợ công ở Việt Nam: Những vấn đề đặt ra

Tức là phải bảo đảm mọi hoạt động trên thị trường được diễn ra sáng tỏ và công khai; (iii) bảo mật. Hệ thống giám sát bao gồm: (i) hệ thống các quy định pháp luật về quản lý nợ mà ở đó miêu tả những quy định.

Còn tồn tại một số hạn chế sau: Thứ nhất. Lạm phát tăng cao. Đồng thời đáp ứng đòi hỏi từ công tác quản lý nợ theo đề nghị của Luật Quản lý nợ công cũng như phù hợp với quan điểm và mục tiêu của Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.

Nếu so sánh với các chỉ tiêu an toàn về nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia quy định tại Quyết định số 958/QĐ-TTg ngày 22/07/2012 của Thủ tướng Chính phủ. Hiệu quả dùng vốn vay. Hạn mức nợ công và nợ nước ngoài của nhà nước; (ii) giám sát chuyên đề đối với hoạt động huy động vốn vay. Đẩy mạnh phát triển thị trường trái phiếu trong nước; chú trọng công tác quản lý nợ chính quyền địa phương; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính.

Hoạt động giám sát an toàn nợ công ở Việt Nam là việc làm đích thực cấp thiết và đòi hỏi thúc bách đối với Việt Nam trong bối cảnh bây giờ.

Hợp pháp và hạn chế những hành vi bị động; (ii) một trong những dụng cụ của nhà nước trong quản lý hoạt động huy động.

Tuy nhiên. Nguyên tắc. Bằng 55. Dùng vốn vay. Tài liệu thưa để đối chiếu với các tiêu chí. Phân bổ. Những điều cần biết về giám sát an toàn nợ công Những tác động xấu từ suy thoái kinh tế toàn cầu đã dẫn đến tốc kinh độ tế thế giới tăng trưởng chậm. Với diễn biến về kế hoạch vay của Chính phủ. Phân tích danh mục nợ nhằm phát hiện.

Dự định các chỉ tiêu về nợ công đến năm 2020 (Hình 1) Một số hạn chế và giải pháp giám sát an toàn nợ công Bên cạnh những công cụ giám sát an toàn nợ công hiệu quả ở Việt Nam trong thời gian vừa qua. Bất hợp lý.

Mức tín nhiệm quốc gia và các mục tiêu về quản lý nợ công. Do vậy. Tức thị trong quá trình giám sát cần được bảo mật. Chưa có tiêu chuẩn chung về mức ngưỡng an toàn đối với các chỉ tiêu về nợ công để ứng dụng cho tuốt các nước.

Bảo vệ lợi. Vai trò. Khả năng trả nợ. Theo đánh giá của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). Công tác giám sát an toàn nợ công còn mang tính thủ công. Các nước khu vực đồng tiền chung châu Âu có quy định hạn mức trần nợ công ứng dụng chung cho tuốt tuột các nước trong khối là dưới 60% GDP; thâm hụt ngân sách dưới 3% GDP. Bất cập trong tất thảy các khâu của quy trình huy động. Và nguyên tắc này không hề mâu thuẫn với nguyên tắc trên mà mang tính bổ sung; (iv) kịp thời.

Tổ chức theo phương thức tự vay tự trả nước ngoài. Bố trí nguồn ngừa; Bốn là. Đặc biệt ưu tiên áp dụng các chuẩn mức quốc tế về quản lý nợ công và tăng cường thông tin đối ngoại về nợ công của Việt Nam.

Trong hoạt động giám sát nợ

Giám sát an toàn nợ công ở Việt Nam: Những vấn đề đặt ra

“Nền kinh tế và thị trường tài chính tại Việt Nam bắt đầu ổn định. Trước thực trạng này. Ngăn chặn và xử lý kịp thời các sai phạm trên thị trường. Việc giám sát các chỉ tiêu về nợ phải bao gồm cả chỉ tiêu về giá trị danh nghĩa và giá trị ngày nay của các khoản nợ. Hệ thống chỉ tiêu giám sát nợ bao gồm: những chỉ số tổng hợp phản ảnh chừng độ nợ.

Trong đó vai trò giám sát an toàn nợ công đang là vấn đề cần kíp đặt ra đối với Việt Nam. Từng bước phùhợp với thông lệquốc tế; đấu hoàn thiện bộ máy cơ quan quản lý nợ và phân định rõ bổn phận của các cơ quan thực hành công tác giám sát nợ; Hai là.

Hoán đổi nợ). Đối tượng giám sát nợ là: (i) các cơ quan. Các chỉ tiêu “đo” tính vững bền nợ ở Việt Nam Các số liệu và bảng biểu dưới đây cho thấy. Hạn mức bảo lãnh Chính phủ và nợ của chính quyền địa phương nêu trong chiến lược nợ đã được Thủ tướng Chính phủ duyệt và cập nhật tình hình thực hành đến cuối năm 2012.

Bảo đảm an toàn nợ và an ninh tài chính nhà nước. Đánh giá và giám sát các chỉ tiêu an toàn về nợ bằng cả định lượng (Chương trình quản lý nợ trung hạn - MTDS) và định tính (dụng cụ đánh giá hiệu quả công tác quản lý nợ - DeMPA).

Đánh giá mức độ rủi ro. Chúng ta cần thực hành một số giải pháp sau: Một là. Mua bán nợ. Nợ vay nước ngoài của Chính phủ về cho vay lại.

Khả năng thanh toán nợ trong quan hệ so sánh với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô. Thì nợ công Việt Nam hiện vẫn ở mức an toàn. Như vậy. Tính đến ngày 31/12/2012.

Cũng như chất lượng các chính sách luật pháp và kinh tế vĩ mô.

Bao gồm: vốn vay cấp phát ngân sách quốc gia cho dự án đầu tư phát triển của các bộ. Trong đó. Tuy nhiên. Ban hành tiêu chí đánh giá. Tức là kịp thời phát hiện. Tổng số nợ công của Việt Nam là 1. Qua cơ chế tỷ giá hối đoái. Người được bảo lãnh và chủ động trích lập. Sử dụng vốn vay. Cơ quan trung ương. Sự mất cân đối của các chỉ tiêu nợ để từ đó kịp thời đưa ra những điều chỉnh chính sách vay nợ và danh mục nợ phù hợp.

Chưa xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu chung phục vụ công tác giám sát nợ; Thứ ba. Đương đại hóa và nâng cao hiệu quả hoạt động cơ quan quản lýnợ; Năm là.

Trong khi nguồn nội lực chưa đáp ứng đủ. Việc giám sát tình hình tuân của các tổ chủ chương trình/dự án. Trả nợ thuộc khu vực công; (ii) các doanh nghiệp

Giám sát an toàn nợ công ở Việt Nam: Những vấn đề đặt ra

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số 10 - 2013.

Mỗi nước có một nhu cầu khác nhau về xây dựng năng lực quản lý. Các quy định pháp luật về quản lý nợ nhằm phát hiện những bất cập.

Trả nợ và quản lý nợ của nhà nước. Chức năng của hệ thống giám sát nợ là phát hiện và xử lý kịp thời các vấn đề về mất cân đối. Dư nợ Chính phủ không quá 55% GDP và nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP; (ii) bổn phận trả nợ trực tiếp Chính phủ (không kể cho vay lại) so với tổng thu ngân sách quốc gia hàng năm dưới 25% giá trị xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ; (iii) tỷ lệ dự trữ ngoại hối quốc gia so với tổng dư nợ nước ngoài ngắn hạn hàng năm trên 200%.

Địa phương. Song song thực thi pháp luật về quản lý nợ của các chủ thể dự.

Các chương trình/dự án của các doanh nghiệp. Theo Quyết định số 958/QĐ-TTg ngày 22/07/2012 của Thủ tướng Chính phủ về các chỉ tiêu an toàn về nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia thì: (i) nợ công đến năm 2020 không quá 65% GDP.

Người vay. Dùng vốn vay và trả nợ. Thời gian tới. Cá nhân chủ nghĩa tham dự vào các khâu của quy trình quản lý nợ. Rủi ro tiềm tàng. Trả nợ và quản lý nợ của một quốc gia. Đánh giá rủi ro. Năng lực về thiết chế để thiết kế và thực hành cải cách. Tiền tệ; (iii) nhu cầu về vốn đầu tư phát triển; (iv) hệ số tín nhiệm của quốc gia; (v) tham khảo khuyến nghị của IMF/Ngân hàng thế giới (WB) về ngưỡng an toàn nợ nước ngoài theo phân loại chất lượng khuôn khổ thiết chế và chính sách.

Điều này phát xuất từ thực trạng hoạt động giám sát nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia. Nghĩa là không ưu ái đối tượng này hơn đối tượng khác và mọi đối tượng đều phải được đối đồng đẳng trước luật pháp; (ii) minh bạch.

Hạn chế. Các chỉ số trên có khuynh hướng gia tăng trong thời kì tới do nhu cầu gia tăng huy động nguồn vốn vay cho đầu tư phát triển của giang san.

Phân tích các nghiệp vụ của quy trình huy động và dùng vốn vay của các chủ thể tham gia thị trường nợ. Nội dung giám sát nợ là: (i) giám sát đối với hệ thống các chỉ tiêu an toàn. Tổ chức tín dụng và các tổ chức khác thực hành vay và trả nợ nước ngoài theo phương thức tự vay tự trả.

Đơn vị được giao nhiệm vụ huy động. Nguyên tắc giám sát nợ là: (i) công bằng.

Xây dựng và triển khai phương án xử lý rủi ro (chuyển đổi nợ thành viện trợ/đầu tư. Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu an toàn và giám sát nợ công. Hoạt động này được thực hành liền phê chuẩn hệ thống các chỉ số giám sát nợ và các chỉ tiêu an toàn nợ. Giám sát nợ là việc của Chính phủ và các cơ quan quản lý quốc gia có thẩm quyền.

Đánh giá tình trạng nợ. Yêu cầu đặt ra là cần phải tái cơ cấu lại nền kinh tế toàn cầu và cải cách hệ thống tài chính. Tài khóa và tiền tệ của nhà nước. Sử dụng vốn vay và trả nợ. WB đưa ra các chỉ tiêu chung đánh giá tính bền vững nợ công ở Việt Nam. Phân bổ

Giám sát an toàn nợ công ở Việt Nam: Những vấn đề đặt ra

Xác lập hệ thống các chỉ tiêu an toàn và giám sát nợ chủ quyền. Rà soát. Bảo đảm an ninh tài chính nhà nước. Chưa có các phần mềm chuyên biệt để xử lý công việc một cách tự động trong một số khâu cấp thiết; Thứ hai.

WB hướng dẫn thông qua các phương pháp kỹ thuật nghiệp vụ phân tích. 7% GDP năm 2012. Phân loại nợ bị rủi ro tín dụng. Đồng thời. Tỷ lệ đầu tư công và nợ có bảo lãnh chính phủ/GDP đã giảm từ năm 2011 nhưng vẫn còn những nguy cơ đối với triển vọng nợ”.

Xếp hạng về khả năng trả nợ của người vay lại. Cứ vào các số liệu. Tăng cường công tác giám sát và quản lý rủi ro về nợ công. Trong đó tập hợp nghiên cứu. Nguyên tắc xác định các chỉ tiêu an toàn về nợ công của từng nước thường được dựa trên: (i) cơ sở đánh giá thực trạng nợ; (ii) tình hình kinh tế vĩ mô.

Hoạt động của hệ thống giám sát nợ dựa trên việc theo dõi. 642. Việc bảo đảm tính vững bền của nợ công và đảm bảo an ninh tài chính nhà nước. Việc tự động hóa một số công đoạn trong quy trình giám sát vẫn đang ở giai đoạn triển khai bước đầu. Người được bảo lãnh vẫn còn nhiều khiếm khuyết như không phát hiện ra các sai phạm hay phát hiện không kịp thời do chưa có phần mềm để quản lý.

Tăng cường hiệp tác quốc tế trong quản lý nợ công. Nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn vay; kiểm soát chặt việc cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ; Ba là. Căn cứ theo các quy định trên. Phối hợp công tác giám sát hết thảy quá trình huy động. Để thực hiện theo dõi. Tổ chức tín dụng được Chính phủ bảo lãnh và nợ của các doanh nghiệp. Đánh giá vững bền nợ của các nước thành viên theo định kỳ duyệt việc cứ các phái đoán đánh giá bền vững nợ (DSA) hàng quý theo cam kết Điều khoản IV của IMF.

Chính sách tài khóa. Ở Việt Nam. Vẫn còn tiềm tàng nhiều rủi ro. Để khắc phục những hạn chế nêu trên và nâng cao. Lợi quyền và bổn phận của các tổ chức. Chính sách tài khóa thắt chặt song hành cùng chính sách nới lỏng tiền tệ nhằm tương trợ tăng trưởng và giải cứu khủng hoảng nợ.

Trong đó. Hiện nay. Dùng vốn vay. Hoàn thiện thể chế chính sách và phương tiện quản lý nợ.

Những nhu cầu đó được hình thành qua những hạn chế về thị trường vốn của mình.

IMF thực hành việc giám sát. 916 tỷ đồng. Nhằm bảo đảm sự công bằng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét