Thứ Năm, 5 tháng 9, 2013

Chuyện lạ Việt phương pháp Nam: Đỗ trạng nhưng muốn làm dân.

Nghệ An thời Trần thuộc đất Hoan Diễn, một khu vực quan yếu có vị trí chiến lược như bức tường thành bảo vệ phía Nam Đại Việt

Chuyện lạ Việt Nam: Đỗ trạng nhưng muốn làm dân

Lê Thái Dũng. Trước khi đi ông đã gặp Bạch Liêu căn dặn nối giúp các quan tướng thực hành “biến pháp” đã định. Bấy giờ quân Nguyên tiến vào nước ta theo hai hướng khác nhau, hướng thứ nhất do Thoát Hoan chỉ huy từ Bắc đánh xuống, chúng chia làm hai cánh quân và bắt đầu xâm phạm bờ cõi nước ta cuối tháng Giêng năm Ất Dậu (1285). Một thời gian sau đó ông di cư ra Bắc, tới sống ở làng Nghĩa Lư, huyện Thanh Tâm, xứ Hải Đông (nay là Hải Dương).

Vua Trần sai cha con Trần Quốc Khang và Trần Kiện đem binh vào hỗ trợ cho việc trấn thủ Hoan Diễn để cản bước tiến của Toa Đô, thế nhưng Trần Quốc Khang không có tài cầm quân nên thua trận, Trần Kiện thì hèn ra hàng giặc. Tình hình chiến trường phía Nam khôn cùng khó khăn, phức tạp; chính thành thử Trần Quang Khải được cử vào tăng viện cho Trần Nhật Duật đang chống giặc ở đây.

Ông cho mời Bạch Liêu vào quân doanh để giúp việc quân, Bạch Liêu đã dâng kế sách ứng phó, chỉ rõ tình hình Hoan Diễn, phân tách thế và lực của ta của giặc. Ông là một trường hợp rất đặc biệt trong lịch sử khoa cử và quan trường Việt Nam, đỗ Trạng nguyên nhưng không ra làm quan, không có chức vị, tước phong gì nhưng vẫn là một đại thần.

Khi ấy, trấn thủ Nghệ An là Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải biết tiếng ông, lại mến tài trọng đức bèn mời Bạch Liêu làm môn khách trong nhà. Trong cuốn  Đại Việt sử ký toàn thư  có viết về ông như sau: “Liêu người Nghệ An, tính sáng dạ nhớ lâu, đọc sách 10 dòng một lúc”. Khuyến khích các vương hầu, quan tướng lập trang viên rồi mộ dân nghèo, người không có ruộng và đưa gia nhân vào canh tác, vỡ hoang để có thêm lương thực, của nả.

Nhận thấy rằng để có thể xây dựng Hoan Diễn thành vùng đất trù phú, giàu mạnh tạo thành chỗ dựa cho quốc gia, Bạch Liêu đã nghĩ suy một thời gian để viết ra  Biến pháp tam chương  , đề xuất ba việc cần làm, đó là: Kiểm tra dân số, biên hết vào sổ nhân khẩu. Thời Trần có hai khoa thi năm Bính Thìn (1256) và Bính Dần (1266) triều đình lấy hai học vị Trạng nguyên: Kinh Trạng nguyên cho người ở phía Bắc và Trại Trạng nguyên cho người từ Thanh Hóa trở vào.

Là người có những đóng góp nhất mực vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống giặc nên Bạch Liêu có tên trong danh sách được triều đình định công ban thưởng nhưng ông khước từ mọi tước vị, vật phẩm. Làm đường thiên lý từ Thanh Hóa vào đến dãy Hoành Sơn, cứ 20 dặm lại lập kho chứa thóc và binh khí. Từ đó mặc dầu cách trở đường xa nhưng Trần Quang Khải vẫn bàn bạc ấu thơ với Bạch Liêu, hỏi quan điểm nhiều việc quan trọng.

Hướng thứ hai do tướng Toa Đô cầm đầu theo đường thủy vượt biển đánh chiếm Chiêm Thành, tạo bàn đạp từ phía Nam đánh thốc lên. Người đỗ Trại Trạng nguyên năm Bính Dần (1266) là Bạch Liêu, quê ở làng Thanh Đàm, xã Nguyễn Xá, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu (nay thuộc Diễn Châu, Nghệ An). Giờ tại đền thờ ông ở làng Nguyễn Xá, huyện Yên Thành, Nghệ An vẫn còn lưu giữ đôi câu đối:  Sinh tiền bất dĩ Đông A đế,   Một vị năng vi Nguyễn Xá thần.

Ở những nơi giáp biên cương phải xây dựng các đồn lũy bảo vệ, mặt khác đưa dân đến vỡ hoang, lập ấp, dựng làng để dựa vào nhau, tạo thế ỷ dốc vững mạnh.

Mặt khác lập các xưởng rèn đúc khí giới để trang bị cho quân lính. Thế nhưng âm mưu đó hoàn toàn thất bại, từ tháng 4 năm Ất Dậu (1285) quân Đại Việt tổ chức phản công trên khắp chiến trường, để rồi đến đầu tháng 6 cùng năm, quân Nguyên Mông đã bị quét sạch ra khỏi bờ cõi.

Chiêu mộ tráng đinh sung vào quân đội, chia làm nhiều phiên ngay luyện tập võ nghệ, phép đánh trận để khi cần sẽ dùng đến.

Tranh minh họa. Điền trại, đồn lũy được lập nhiều nơi; sau mấy năm thực hành “biến pháp” Hoan Diễn đã trở nên một vùng đất giàu mạnh. Tiếc rằng tư liệu về Bạch Liêu không có nhiều, chỉ có ít dòng biên chép trong sách sử, mẩu chuyện và giai thoại dân gian nên chúng ta không rõ nhiều về năm sinh, năm mất, gia thế, sự nghiệp…của ông.

Tháng 3 năm Tân Mùi (1271), triều đình triệu Trần Quang Khải về kinh giữ chức thừa tướng thái úy, coi giữ việc nước. Khi Bạch Liêu mất, ở Nghĩa Lư cũng như tại quê hương, dân làng đều xây đền thờ cúng; triều đình phong ông làm phước thần, hiệu là Dương cảnh thành hoàng chúa thượng.

Tức thị:  Sống không nhận quan tước của vua Trần,   Chết làm Phúc thần của làng Nguyễn Xá.

Sau khi đỗ Trạng nguyên, Bạch Liêu không ra làm quan mà xin vua cho về quê hương để ở nhà báo hiếu bố mẹ, giúp việc cho làng xóm. Trên cơ sở đó Trần Quang Khải điều khiển binh tướng tổ chức đánh trả quyết liệt khiến cho đạo quân của Toa Đô bối rối, sa lầy; chúng buộc phải đóng lại ở một số thành tại Nghệ An, Thanh Hóa rồi chung cục cố sức tiến ra Bắc để thực hành mưu đồ tạo gọng kìm chiến lược tiêu diệt quân chủ lực của ta.

Đọc xong  Biến pháp tam chương  của Bạch Liêu, Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải nắc nỏm ngợi khen, sau đó ông cho thi hành ngay. Biết tài của ông, lại thấy nhà Nguyên vẫn chưa chịu từ bỏ tham vọng đoạt nước ta, năm Đinh Hợi (1287), vua Trần sai Bạch Liêu đi sứ để dò xét; khi về nước ông trở lại quê hương dạy học, bốc thuốc chữa bệnh.

Hai người thường xướng họa thơ phú, thảo luận văn chương rất ý hợp tâm đầu; dần dần Trần Quang Khải coi Bạch Liêu là người nhà tín, cho ông tham gia bàn việc quân, việc nước. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lăng lần thứ II, đất Hoan Diễn được coi là địa bàn chiến lược.

Truyền rằng Bạch Liêu là người rất thông minh, xem thẳng thắn, đọc sách một lần là nhớ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét