Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2013

Chuyện chưa kể về lăng tẩm triều Nguyễn - Bài 3: Hành cung thứ hai của vị vua thi sĩ


Xung Khiêm Tạ - Một ngôi nhà dùng để ngắm cảnh

Trong khu lăng của nhà vua


Từ Vạn niên cơ và cuộc khởi nghĩa chày vôi


Vua Tự Đức - Một ông vua nhà thơ đã chọn cho mình một nơi yên nghỉ xứng đáng với ngôi vị của mình, phù hợp với sở thích và nguyện vọng của con người có học thức uyên thâm và lãng nhân bậc nhất trong hàng vua chúa nhà Nguyễn. Và nơi yên nghỉ của bậc đế vương ấy tọa lạc trong một thung lũng thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh (nay là thôn Thượng Ba, xã Thủy Xuân, thành phố Huế).


Sau khi "chuẩn định” đồ án kiến trúc theo ý thích của mình vào tháng 10 năm 1846, nhưng mãi đến tháng 12 năm ấy mới khởi công xây dựng. Lúc khởi công xây dựng, nhà vua đặt tên cho công trình là "Vạn Niên Cơ” (cơ đồ ngàn năm). Công việc xây dựng lăng tẩm của nhà vua được dự kiến trong 6 năm với 3000 lính và thợ. Những người này sẽ được thay phiên nhau về nghỉ 3 tháng một lần. Tuy nhiên, viên biện lý Bộ công lúc bấy giờ là Nguyễn Văn Chất vì muốn lập công với nhà vua, nên đã tâu xin thực hành trong 3 năm liền. Do đó, triều đình đã cử ông và Thống chế Lê Văn Xa ở Bộ binh đứng ra dòm việc thi công.


Những người lính và thợ nơi đây, đã không được thay nhau về nghỉ như lời hứa ban sơ, trái lại họ còn bị cưỡng hiếp tăng cường sức cần lao đến mức tối đa. Chính vì lẽ đó mà sau khi nghe tiếng gọi của anh em Đoàn Hữu Trưng, đêm 16 rạng ngày 17-9-1866, họ dùng vũ khí là những chiếc chày giã vôi (nên mới có tên gọi "giặc chày vôi”)- với chiêu bài tôn phò "Ngũ đại hoàng tôn” kéo về kinh đô để lật đổ ngai vàng của vua Tự Đức nhằm đưa Ưng Đạo, cháu nội năm đời của vua Gia Long lên ngôi. Tuy thế, đoàn người khởi nghĩa khi vừa kéo quân đến điện Thái Hòa thì bị quân triều đình đánh trả, nên thất bại. Cuộc khởi nghĩa bị dập tắt, nhưng uy tín của nhà vua thì bị bị thương tổn khá nhiều. Sau cuộc binh biến này, người thua khuất mắt, an phận một bề. Người thắng ôm hận, day dứt suốt thế cục còn lại. Nỗi đau và sự trăn trở, hình như vẫn còn đó trong giây lát của khu lăng tẩm này.


Để xoa dịu cuộc khởi loạn vừa dấy lên, nhà vua đã viết lời phủ dụ cáo buộc Nguyễn Văn Chất và Lê Văn Xa, đồng thời cách chức hai người này. Ngày 26-10-1866, vua Tự Đức sai Thượng thư Bộ hình Phan Huy Vịnh, Phó Đô Ngự sử Lê Bá Thận và Biện lý Bộ lại Nguyễn Lâm, đấu nhiệm vụ điều khiển lính xây lăng cho đến ngày hoàn thành, tháng 9 năm 1867.




Vua Tự Đức
Tuyệt tác của không gian thơ và nhạc


Toàn cảnh lăng Tự Đức như một công viên rộng lớn. Ở đó quanh năm có suối chảy, thông reo, muôn chim hót. Nguyên tố được trọng triệt để trong lăng Tự Đức là sự hài hòa của đường nét. Không có những con đường thẳng, đầy khía cạnh như các kiến trúc khác, thay vào đó là con đường lát gạch Bát Tràng bắt đầu từ cửa Vụ Khiêm đi qua trước Khiêm Cung Môn rồi uốn lượn vòng vo ở phía trước lăng tẩm. Sự sáng tạo của con người hài hòa với phong cảnh thiên nhiên tạo nên một khung cảnh thơ mộng, diễm lệ. Trong cái hấp dẫn của mây nước, hương hoa, khiến con người như quên đi đây là một khu lăng tẩm, mà ngỡ là thiên đàng của cỏ cây, của thi ca và ảo mộng... Và thiên đường này được đổi tên thành Khiêm Cung, mà ở đó dù mỗi một công trình lớn nhỏ đều có chữ "Khiêm” đứng đầu, tất thảy như muốn nói đến sự khiêm nhường của nhà vua, sau khởi nghĩa Chày Vôi do anh em Đoàn Hữu Trưng khởi xướng.


Trong vòng La thành rộng khoảng 12 ha, gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ được trải dài thành từng cụm trên những thế đất phức tạp, cao thấp khoảng chừng 10m, tất thảy được tạo thành nhân tiện thống nhất tương quan và gần gụi. Lồng trong những lối đi uốn lượn của khu lăng tẩm này, có hồ Lưu Khiêm và đảo Tịnh Khiêm thơ mộng. Ven hồ là những đình, tạ quanh năm soi bóng xuống mặt hồ phẳng lặng và trong xanh.


Qua khỏi Khiêm Cung Môn, cửa Tam quan hai tầng được làm trên một thế đất cao, và trong đó là một hệ thống cung điện gồm vài chục tòa nhà lớn nhỏ, cùng các công trình kiến trúc phụ thuộc. Riêng ở đây, có rạp hát Minh Khiêm Đường được xem là hí viện thượng cổ nhất Việt Nam. Có một hố xí từ điện Ôn Khiêm dẫn ra Trì Khiêm Viện và Y Khiêm Viện là chỗ ở của các cung phi theo hầu nhà vua, ngay cả khi vua còn sống cũng như khi vua đã chết. Cạnh đó là Tùng Khiêm Viện, Dung Khiêm Viện và vườn nuôi nai của nhà vua.


Nếu nhà cửa ở Khiêm Cung đều bằng gỗ thì cả thảy các công trình kiến trúc ở khu lăng tẩm đều được xây dựng bằng gạch. Đáng chú ý là tấm bia lớn nhất Việt Nam có khắc bài "Khiêm Cung Ký’ do nhà vua soạn thảo. Tự Đức muốn dùng tấm bia đồ sộ đó để kể công và nhận tội trước lịch sử. Ông tự nhận tội mình: "Không minh mẫn trong việc biết người, ấy là của ta; dùng người không đúng chỗ, cũng là tội của ta; hàng trăm việc không làm được; đều là tội của ta cả...” Và ông nhường cho sử sách đời sau đánh giá công, tội của mình. Xa xa trên ngọn đồi nằm bên kia hồ bán nguyệt Tiểu Khiêm Trì là Bửu thành được xây bằng gạch, chính giữa có ngôi nhà nhỏ được xây bằng đá thanh là nơi nhà vua yên nghỉ, giữa một rừng thông vi vu gió lộng.


Khiêm Cung là một tổng thể kiến trúc Tuyệt tác về nghệ thuật xây dựng lăng tẩm thời Nguyễn. Kiến trúc và thiên nhiên ở đây được lồng ghép vào nhau tạo cho ta nhiều cảm xúc thẩm mỹ mới lạ giữa cõi mông mênh của thơ và nhạc. "Tứ phía núi phủ mây phong/ Mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng Vạn niên”.


Xuân Vinh


[Bài 1: Nghiệp đế và ngôi nhà vĩnh hằng sau cái chết]

[Bài 2: Nơi yên nghỉ của niềm tin]

[Kỳ sau: Chuyện ông vua không "sướng như vua”]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét